Tuesday, June 30, 2009

Friday, May 15, 2009

Tự-thán

Tự-thán Ta : chiến-sĩ đã quên mùi súng-đạn,
Ta : văn-hào nhưng chán chuyện văn chương.
Là chính-khách, ta thạo nghề mua-bán,
Là thương-gia, ta quen việc chính-trường.

Khi đất nước còn trong tầm tay với,
Ta nhởn-nhơ hưởng lạc-thú thê-nhi,
Tiếng kèn Quang-Trung nghe xa vời-vợi,
Hận Trưng-vương sông Hát vắng câu thề...

Lúc mắc bận lên rừng tìm gỗ quí,
Khi mải lo xuất-ngoại kiếm kim-cương.
Xây biệt-thự bằng tiền trong công-quĩ.
Lập đồn-điền với lính cậu, không lương,

Ngoài biên-ải, súng từng đêm rộn-rã,
Giặc điên-cuồng đang phá nát Quê-hương.
Người lính biên-khu nhớ nhà, buồn-bã,
Thấy cô-đơn lạc-lõng giữa sa-trường.

Nơi thành-thị, cảnh nồi da xáo thịt,
Các cụ-dân bận chia thịt với xôi.
Đi đêm xong miệng-ồn im thin-thít
Vui cả làng, mặc chú cuội thò đuôi.

Giữa thị-thành và địa-đầu chiến-tuyến,
Một khoảng chân-không cách-biệt bao-la.
Hy-sinh mấy cũng tan theo bọt biển,
Kẻ đắp xây, người phá nát sơn-hà.

Giặc đến nhà...ta ngần-ngừ... chẳng đánh,
Đất nước chung, trách-nhiệm những ai-ai...
Quốc-gia hưng-vong, sất-phu hữu trách,
Ta trượng-phu, nên nhẹ hẫng hai vai.

Nỗi lo-sợ bàng-hoàng chợt kéo đến,
Khi xuân tan, giông-bão đổ lên đầu.
Thoát thân ư ? Chỉ một đường ra biển,
Mọi giai-tầng xã-hội dẵm lên nhau.

Giấc mơ Quang-trung tan theo mây khói,
Nửa cuộc đời gây-dựng bỗng tay không.
Ta từ đây theo sóng đời trôi nổi,
Trên đất người, ta lê bước lưu-vong.

Nửa đời trước chưa làm gì cho nước ,
Nửa đời sau đành lưu-lạc tha-phương.
Không lẽ ta : trọn đời vô Tổ-quốc ?
Hay trọn đời là kẻ thiếu Quê-hương....?

Nguyễn Tường-Vân

Nỗi hờn Quốc-phá

Người xưa bảo : Quốc phá Sơn-hà tại.
(Sông-núi còn, dù nước mất nhà tan !)
Sông núi còn... dù dân-tộc lầm-than,
Từng quằn-quại qua bao cơn quốc-phá...

Ta đã sống hàng nghìn năm nhục-nhã,
Dưới bàn tay tàn bạo của ngoại-nhân.
Nhưng dân ta vẫn nhẫn-nại, chuyên-cần,
Giữ sông núi tươi xanh bao thế-hệ...

Ta đã xây... những con đường vạn-lý,
Đường xuyên-sơn, đường từ bắc xuôi nam...
Những vị anh-hùng không quản gian-nan,
Phạt Bắc, bình Tây...,chẳng nề thành bại !

Nguyễn Thái-Học đã thành-danh vạn-tải,
Dù đường đi chưa tới đích thành-công.
Hưng-đạo-vương và Hoàng-đế Quang-trung,
Cơn quốc-phá giữ yên ... Sơn-hà tại.

Ngọn bút thần trong bàn tay Nguyễn Trãi
Dẫn ta đi theo tiếng gọi : bình Ngô !
Nam-quốc Sơn-hà hề... Nam-đế cư,
Lý Thường-Kiệt ngâm vang dòng lịch-sử.

Đất bùn-lầy dưới bàn chân Công-Trứ,
Nay biến thành vùng đồng-ruộng phì-nhiêu...
Việt-Nam ơi ! Hỡi Việt-Nam mến-yêu !
Tô-đắp mãi thành Giang-Sơn cẩm-tú...

Bao gã thanh-xuân lòng như thác-lũ,
Đã từng phen đem máu tưới non sông.
Từng rạng danh là con Lạc cháu Hồng,
Từng kiêu-hãnh được xả-thân giúp nước.


Nhưng ngày kia, một đám người ngang-ngược,
Đội lên đầu một chủ-thuyết ngoại-lai,
Lừa-bịp quốc-dân, tàn-sát giống-nòi,
Khiến đất-nước bị tan-tành muôn mảnh...

Sơn-hà tại ?! - Sơn-hà trong hoang-lạnh !
Dân-tộc mỏi-mòn trong cõi thâm-u.
Bao tinh-anh Tổ-quốc hãm trong tù,
Bao chất xám bơ-vơ nơi hải-ngoại...

Tổ-quốc ơi ! Hỡi nợ-nần oan-trái !
Kẻ cuồng-si làm băng-hoại Giang-sơn.
Núi vẫn cao, nhưng chất-chứa căm-hờn,
Sông vẫn chảy, nước tanh mùi bạo-lực.

Đồng-ruộng phì-nhiêu mà dân đói-cực,
Dưới ách bạo-tàn của lũ quỉ-nhân.
Sông núi còn, nhưng sông-núi qua-phân,
Bao màu-mỡ bán rao cho ngoại-quốc.

Sông-núi ơi ! - Hỡi hồn thiêng non-nước !
Hãy bật hồng ngọn đuốc để dẫn đường,
Soi lối đi cho những kẻ vô-lương,
Sửa đầu óc bọn tiếm-quyền ngu-dốt !

Hỡi anh-linh những anh-hùng thuở trước !
Hãy nhập vào tâm-não giới thanh-niên,
Để một ngày toàn-quốc sẽ đứng lên,
Dẹp bạo-lực, rửa nỗi hờn Quốc-phá...

Nguyễn Tường-Vân

Thế Chiến-quốc

Những đêm thâu ẩn mình nơi xứ lạ,
Ta đã từng dằn-vặt bởi đau thương,
Ta từng nghe vạng vọng tiếng Quê-hương,
Việt-Nam vẫn trầm-luân trong máu đỏ...

Cả giống-nòi bị một loài ác-thú,
Dùng bạo-quyền cướp của, hiếp nhân-dân.
Dùng chiêu-bài đổi mới với canh-tân,
Bán từng mảnh đất vàng cho ngoại khách...

Những mảnh đất từ mồ-hôi nước mắt,
Bị cắt dần đem hiến cho ngoại bang.
Bọn đảng-viên sống phè-phỡn giàu sang,
Mặc dân chúng càng ngày càng đói khổ.

Lấy máu dân nhuộm thành màu cờ đỏ,
Cướp của dân tô đắp ụ sao vàng.
Dùng bạo quyền như ác thú, sài lang,
Không cần biết đến tương lai dân tộc.

Ta thùơng có những đêm dài thao thức
Nỗi xót xa đến tận đáy tâm can.
Những mong chờ ngày giằng lại giang-san,
Ðem no ấm tự do cho dân tộc.

Ta phải về một ngày mai, Tổ-quốc
Dưng lại cờ vàng, nuôi lại niềm tin.
Xây lại đền-đài lăng-miếu linh-thiêng
Làm sống lại tiềm-năng dòng-giống cũ.

Ta phải về, về trong lòng đất Tổ
Ðem tâm-tình viết lịch-sử mai sau.
Lấy trí-nhân chuyển-hóa lũ ma-đầu
Xây dân-chủ trong khung trời pháp-trị.

Ta phải về, về với lòng đất Mẹ,
Với Yêu-thương tràn-ngập khắp phố-phường.
Phá nhà tù, xây lại những miếu-đường,
Vang tiếng hát giữa sân trường áo trắng.

Người tuổi trẻ vùi đầu bên tấm bảng,
Lấy học-hành làm Hạnh-phúc Tuổi Xanh,
Ôm-ấp tương-lai như bạn tâm-tình,
Lấy kiến-thức làm vinh-quang non-nước.

Ta phải về, không người sau kẻ trước,
Nhưng sắp hàng ngang cùng lúc bước rạ.
Thanh-niên ơi, mau tiến lên dưới cờ !
Dẹp Giặc Đỏ, xây-dựng bờ-cõi Việt.

Nguyễn Tường-Vân

Thế Xuân-Thu

Thế Xuân-Thu đã đến giờ chuyển bước,
Ðã đến ngày phục-quốc, Quốc-dân ơi !
Ðứng lên mau, đòi hỏi quyền làm người,
Ðòi quyền sống, sống tự-do dân-chủ...

Nam-quốc sơn-hà, dân Nam cư-trú,
Người Việt-Nam làm chủ nước Nam ta,
Chủ-nghĩa ta là chủ nghĩa Sơn-Hà,
Không vay mượn, không phụng thờ ngoại-quốc.

Ta phải về, sẽ về bằng cửa trước,
Không uốn mình theo thủ-tục đầu tiên.
Không khom lưng nhịn-nhục cách ươn-hèn,
Ðể bọn cướp chực đè đầu bóp cổ...

Ðã đến lúc bạo-quyền kia phải đổ,
Ðã đến giờ giằng lại mảnh Giang-san.
Ta phải về đem no ấm bình-an,
Phục-dưỡng tinh-thần cho người chính-khí...

Ta phải về vững xây nền pháp trị
Mọi người dân một tiếng nói ngang nhau.
Mỗi người dân một lá phiếu đi bầu
Kẻ vì nước sẽ được dân chọn lựa.

Bè-lũ lưu-manh, bọn giương cờ đỏ,
Sẽ gửi sang quê-quán Mác-Lê-ninh.
Chủ-nghĩa nhục-nhằn, chủ-nghĩa giả-hình,
Ðem đốt hết, chung với mồ Hồ-tặc.

Ai thích gọi tên giặc già là Bác,
Xin mời sang thiên-đường-giả Mút-Cu.
Nơi quê-hương của những kẻ đui mù,
Thiên-đường đổ vẫn còn chưa sáng mắt...

Ta phải về... đem an lành chân-thật,
Ðem ấm-no thật-sự cho toàn-dân.
Ðã đến ngày đất nước phải canh-tân,
Không còn nữa những ao tù tăm-tối...

Ta phải về...nghe chăng, lời Sông-Núi,
Ðang âm-thầm, tha-thiết giục người dân
Hãy hào-hùng đứng ngay dậy, đấu-tranh,
Ðòi quyền sống, quyền Tự-do dân-tộc.

Ta phải về, về phụng-thờ Tổ-quốc,
Giúp dân ta xây dựng laị Quê-hương.
Ðưa Việt-Nam lên địa-vị phú-cường,
Ðể hãnh-diện như muôn nghìn thuở trước...

Nguyễn Tường-Vân

Lời trước nghĩa trang

Tao sống đến ngày cuối cùng cuộc chiến
Được cái hơn mày nhìn thấy đau thương
Đành làm người ngu đổ thừa vận nước
Uổng cả tháng ngày gối đá nằm sương ..

Mày đã hơn tao vì mày đã chết
Hưởng chút lễ nghi, hưởng chút ân cần
Có được người thân cho lời nuối tiếc
Còn tao bây giờ sống cũng như không

Mầy có tin không, quê hương đã mất
Giữa lúc bọn tao nguyên vẹn hình hài
Đâu thưở quân trường đâu thời huấn nhục
Để nhận lấy ngày khốn nạn hôm nay

Một lủ đàn anh tan hàng cuốn gói
Bỏ mặc bọn tao đứng khóc dưới cờ
Món nợ tang bồng bao giờ trả nỗi
Mất cả sơn hà cứ tưởng như mơ

Giờ chẳng dám nhìn ngay vào mắt mẹ
Đành đến thăm mày những thằng đã chết
Ngày .. Quê hương còn lắm nỗi thiết tha

Thơ Trạch Gầm
Nhạc - Ca sĩ Nguyễn Văn Thành

Wednesday, May 13, 2009

Hai Bác Thăm Đồ

Khi cộng sản chiếm miền Nam, không những thủ đô Sài Gòn bị đổi tên, mà nhiều đường phố và trường học cũng bị đổi tên theo.

Hai trong số những trường trung học nổi danh của thủ đô Sài Gòn bị đổi tên là Trương Vĩnh Ký, bị đổi thành Lê Hồng Phong, và Gia Long, bị đổi thành Nguyễn Thị Minh Khai. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nền giáo dục của Việt Nam tên của một cặp vợ chồng được chọn để đặt tên cho 2 trường trung học ở cùng một đô thị.

Lê Hồng Phong từng giữ chức tổng bí đảng Cộng Sản Đông Dương, trước Đặng Xuân Khu, và bị giết khi Nam Kỳ khởi nghĩa chống Pháp.

Nguyễn Thị Minh Khai từng giữ chức bí thư kỳ bộ miền Nam của đảng Cộng Sản Đông Dương. Mới đây, do tài liệu từng được giữ bí mật nhiều năm, nay bị phanh phui từ Mát xơ va (Mạc Tư Khoa), thì Nguyễn Thị Minh Khai có một thời chung sống với Hồ Chí Minh. Nguyên do là các cán bộ cộng sản cao cấp của Đệ Tam Quốc Tế, như cỡ họ Hồ, khi hoạt động ở nơi nào cũng sẽ được đảng cung cấp. . . vợ ở nơi đó, để vấn đề sinh lý được điều hòa, không ảnh hưởng tới việc hoạt động. Nguyễn Thị Minh Khai là người được đảng cộng sản cung cấp cho họ Hồ trong một khoảng thời gian ông ta hoạt đông bí mật.

* * *

Có một bi sử kỳ thú được cán bộ cộng sản rỉ tai nhau, trong một dịp hai "đồng chí" Hồ Chí Minh và Tôn Đức Thắng tới thăm nữ đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, như sau:

Trong một dịp tới thăm nữ đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai ở chiến khu, để gây ngạc nhiên cho người nữ đồng chí trẻ tuổi này, cuộc viếng thăm không được báo trước. Nhưng khi hai ông tới nơi thì Nguyễn Thị Minh Khai đã ra suối tắm, và bà có lệnh cấm không cán bộ nào được léo hoánh tới gần chỗ đó.

Bác Hồ và bác Tôn quyết định ra suối để mật đàm với nữ đồng chí bí thư. Vì là chủ tịch và phó chủ tịch nhà nước nên các cán bộ không ai dám ngăn cản. Cuộc mật đàm với nữ đống chí Nguyễn Thị Minh Khai ở bờ suối diễn ra làm sao không ai được rõ, chỉ biết sau đó có kẻ làm hai câu thơ kể vắn tắt câu chuyện này như sau:

Bác Hồ cùng với bác Tôn,
Rủ nhau ra suối nhìn …ồn Minh Khai.

Về sau lại có kẻ thêm vào hai câu thơ nữa, thành ra:

Bác Hồ cùng với bác Tôn,
Rủ nhau ra suối nhìn …ồn Minh Khai,
Nhìn xong tấm tắc khen hoài,
Lông ...ồn có thể rậm dài thế sao?

"Bài thơ" được truyền tai, thêm thắt, khi ra tới hải ngoại, lọt vào tay nhóm báo trào phúng Con Ong Cái Kiến, do Thiện Nhân Nguyễn Khánh Do chủ trương, năm 1981, nó dài thêm, và trở thành:

Bác Hồ cùng với bác Tôn,
Rủ nhau ra suối nhìn …ồn Minh Khai,
Nhìn xong tấm tắc khen hoài,
"Lông …ồn có thể rậm dài thế sao? "
"Nghe đồn cô ấy vô mao"
"Nào ngờ rậm rạp khác nào. . . Castro! "

Bài thơ được đăng trên báo Con Ong Cái Kiến số 7, đề ngày 30-10-1981, phát hành từ Houston, Texas, thì có một vị độc giả gửi tới tờ báo một bản khác của bài thơ với lời nhắn là nếu đăng thì phải đăng nguyên văn chứ không được viết tắt, như "nhìn. . . ồn" chẳng hạn, vì viết như thế sẽ làm mất phần. . . thi vị và lý thú của thơ trào phúng.

Báo Con Ong Cái Kiến dù cho lời bình phẩm của vị độc giả là có lý nhưng vì không muốn in những chữ thô tục trên giấy trắng, mực đen, nên đã xin lỗi vị độc giả đó, và không đăng bài thơ mà ông đã sửa chữa.

Bài đó nay xin đăng lại ở đây, vẫn xin dùng lối viết tắt, cần thiết để tránh viết rõ các chữ thô tục, thiết tưởng độc giả thừa sự hiểu biết để đoán ra chữ nghĩa. Bài thơ được sửa như sau:

Bác Hồ cùng với bác Tôn,
Rủ nhau ra suối nhìn l. . . Minh Khai,
Nhìn xong tấm tắc khen hoài,
Lông l. . . quả thật rậm dài làm sao!
Nhìn rồi lòng dạ nao nao,
Vòng tay hai bác vái chào Castro.

Bài thơ sau đó lọt vào mắt một nhà giáo di tản, cư ngụ tại tiểu bang Minesota, ông này nổi hứng, sửa cho bớt thô tục, và gắn thêm 4 câu nữa:

Bác Tôn cùng với bác Hồ,
Rủ nhau ra suối nhìn đồ Minh Khai,
Nhìn xong tấm tắc khen hoài,
Lông đồ quả thật rậm dài làm sao!
Ai đồn bà ấy vô mao,
Nào hay rậm rạp khác nào. . . Castro!
Ghé tai Tôn nịnh bác Hồ:
"Râu bác trông giống lông đồ Minh Khai! "
Hồ rằng: "Chú nói khí sai,
Thực ra. . . của nó còn dài hơn tôi.
Vì tôi đưa miệng đọ rồi !!! "

Cái lý thú của những câu sau cùng là lời đối đáp của hai ông Tôn và Hồ. Phải chăng lời Tôn khen râu Hồ là phản ảnh tính nịnh bợ, một tính hèn hạ phổ thông của những đàn em cộng sản đối với đàn anh, hay là một lời khen xỏ xiên, ngầm ý so sánh mồm "bác" với "cái ấy" của người nữ đồng chí?

Và lời Hồ đáp lại lời khen của Tôn phải chăng là mắc cở vì bộ râu lưa thưa ba sợi bị so sánh với cái bộ. . . lông rậm, dài, hay là lợi dụng cơ hội để biểu diễn tính khiêm nhượng, một thủ thuật mà Hồ vẫn quen sử dụng với đàn em? Xin mời độc giả nào có hứng, múa bút chắp thêm ít câu vào bài thơ dài, hoặc góp lời bình phẩm !!!

Chuyện vui đêm Tân Hôn

Có một cặp vợ chồng nọ, cả hai đều làm cho một nhà xuất bản sách báo. Sau khi tiệc Tân Hôn xong, về nhà nằm nghỉ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện, từ việc thức ăn ngon của nhà hàng, người này mặc áo đẹp, ca sĩ nọ ca hay,... và sau cùng là việc quan trọng là tài chánh coi dư thiếu thế nào ! Sau khi kiểm tiền xong, thì anh chồng hoảng hốt than với vợ là lỗ tiền nhiều quá. Tuy nhiên, anh chồng muốn tỏ ra bất cần tiền và muốn cho đêm hoa chúc đầu tiên thêm phần thi vị, anh chồng mới làm câu thơ kiểu con cóc như sau :

Sách hay, cho nên phải đắt tiền !

Chị vợ vì cùng nghề, nên ứng khẩu liền :

Hôm nay xuất bản lần đầu tiên

Anh chồng hôn vợ thắm thiết và thêm câu khác :

Anh còn tái bản nhiều lần nữa

Chị vợ sung sướng lắm, bèn thêm câu thơ nữa :

Em để cho anh giữ bản quyền

Vài năm sau, thấy chồng hờ hững quá, chị vợ bèn làm thơ :

Sách đã cũ rồi phải không anh ?
Sao nay, em thấy anh đọc nhanh !
Không còn đọc kỹ như trước nữa ?!
Để sách mơ thêm giấc mộng lành !

Anh chồng ngượng ngùng bào chữa :

Sách mới người ta thấy phát thèm
Sách mình cũ rích, chữ lem nhem
Gáy thì lỏng lẻo, bìa lem luốc !
Đọc tới đọc lui, truyện cũ mèm !


Cô vợ liền thanh minh, dù buồn trong bụng rất nhiều :

Sách cũ nhưng mà truyện nó hay !
Đọc hoài vẫn thấy được...bay bay !
Đọc xong kiểu này, rồi kiểu khác
Nếu mà khám phá sẽ thấy hay !?

Anh chồng cũng còn có vẻ chán nản , nên làm 4 câu thơ sau :

Đọc tới đọc lui mấy năm rồi
Cái bìa sao giống giấy gói xôi
Nội dung từng chữ thuộc như cháo
Nhìn vào hiệu sách, nuốt không trôi....

Hai vợ chồng lời qua tiếng lại cũng khá căng thẳng, thì bên hàng xóm có
anh chàng láng giềng nghe được, bèn lẩm nhẩm mấy câu thơ cho 2 vợ chồng này nghe :

Sách cũ nhưng mà tui chưa xem
Nhìn anh đọc miết...thấy cũng thèm
Cũng tính hôm nào qua đọc lén
Liệu có trang nào anh chưa xem ?!

Anh Hai Chương

Anh Hai Chương

Anh Ba Chiến

Anh Ba Chiến

Anh Năm Chánh

Anh Năm Chánh

Anh Sáu Chuẩn

Anh Sáu Chuẩn

Chị Bảy Chuyện

Chị Bảy Chuyện

Chị Tám Châu

Chị Tám Châu

Chị Chín Chiêu

Chị Chín Chiêu

Anh Chị Tư

Anh Chị Tư

Chị Tư Ngày Nay

Chị Tư

Chị Tư Ngày Xưa

Chị Tư Xưa

Hình Diễm Huy

Hình Diễm Huy

Hình Diễm

Hình Diễm

Hình Nhon

Hình Nhon

Để râu

Để râu không phải là dê
Để râu để biết mình mê đàn bà.

Để râu không phải là già
Để râu để biết mình là đàn ông.

Để râu không phải là ngông
Để râu để biết mình không sợ gì.

Để râu không phải là lười,
Để râu để lúc mình cười che răng !

Để râu thì để cho dài
Để chi ngắn ngũn có ngày tưỡng ...hair

Để râu phải để cho phong
Đừng để mấy cọng giống lông đàn bà

Để râu mà nhậu tiết canh
Đừng chậm kleenex kẻo xanh mặt mày

Để râu phải để cho phê,
Đừng để mấy cọng như Tề khó coi !

Để râu phải để cho oai
Để chi vài cọng loai choai khó nhìn

Để râu một tí cho vui.
Nếu mà trời có tối thui em rờ !

Để râu cho mấy cô rờ
Tôi đây đẹp lão cũng nhờ bộ râu

Để râu đâu phải là già,
Tôi đây râu rậm để mà rờ chơi !

Hỡi cô công chúa kia ơi,
Đừng gọi là "lão" mà khơi vết lòng !

Để râu không phải là già
Để râu để biết Bống là đàn ông !!!

Râu cằm, râu mũi, râu ...
Râu nào cũng rậm cũng chìa hai bên.

Để râu cho mấy cô sờ
Tôi đây duyên dáng cũng nhờ bộ râu

Để râu không phải là ngông
Để râu là để thử mông đàn bà !!

Tuesday, May 12, 2009

Hình xưa 2

Hình xưa 2

Hình xưa

Hình xưa

Hình Đà Lạt

Hình Đà Lạt

Bài Ca Vọng Cổ

Tôi vượt biên một mình rồi định cư ở Pháp. Năm đó tôi mới 49 tuổi, vậy mà đi tìm việc làm đến đâu người ta cũng chê là tôi già! Vì vậy, một hôm, khi chải tóc, tôi nhìn kỹ tôi trong gương. Tôi bỗng thấy ở đó có một người có vẻ quen nhưng thật ra thì rất lạ: mắt sâu, má hóp, mặt đầy nết nhăn trên trán, ở dưới mắt, ớ khóe môi, mái tóc đã ngà bạc cắt tỉa thô sơ như tự tay cắt lấy. Từ bao lâu nay tôi không để ý, bây giờ soi gương vì bị chê già, tôi mới thấy rằng tôi của hồi trước “Cách mạng thành công” và tôi của bây giờ thật không giống nhau chút nào hết. Tôi già thiệt, già trước tuổi. Cho nên, tôi nhìn tôi không ra. Từ đó, mỗi ngày tôi …. Tập nhìn tôi một lần, nhìn kỹ, cho quen mắt !
Một người bạn làm việc lâu năm ở Côte d’Ivoire (Phi Châu) hay tin tôi đã qua Pháp và vẫn còn thất nghiệp, bèn giới thiệu cho tôi Công ty Đường mía của Nhà nước. Không biết anh ta nói thế nào mà họ nhận tôi ngay, còn gửi cho tôi vé máy bay nữa!
Xưa nay, tôi chưa từng quen một người da đen gốc Phi Châu nào hết. Và chỉ có khái niệm thô sơ về vùng Phi Châu da đen như là: Ở đó nóng lắm, đất đai còn nhiều nơi hoang vu, dân chúng thì da đen thùi lùi, tối ngày chỉ thích vỗ trống, thích nhảy tưng tưng v.v… Vì vậy, tôi hơi … ngán. Nhưng cuối cùng rồi tôi quyết định qua xứ da đen để làm việc, danh dự hơn là ở lại Pháp để tháng tháng vác mặt Việt Nam đi xin trợ cấp đầu nọ, đầu kia.
Nơi tôi làm việc tên là Borotou, một cái làng nằm cách thủ đô Abidjan gần 800km! Vùng này toàn rừng là rừng. Không phải là rừng rậm rì cây cao chớn chở như ở Việt Nam. Rừng ở đây cây thấp lưa thưa, thấp thấp cỡ mươi, mười lăm thước… coi khô hóc. Không có núi non, chỉ có một vài đồi không cao và trũng, không sâu…
Nhà nước phá rừng trồng mía. Ruộng mía ngút ngàn! Nằm ở trung tâm là khu nhà máy, khu cơ giới, khu hành chánh, khu cư xá v.v… nằm cách nhau cỡ vài cây số.
Muốn về thủ đô Abidjan, phải lái xe hơi chạy theo đường mòn xuyên rừng gần ba chục cây số mới ra tới đường cái tráng nhựa. Từ đó chạy đi Touba, một quận nhỏ với đông đảo dân cư. Từ đây, lấy máy bay Air Afriqua về Abidjan, mỗi ngày chỉ có một chuyến. Phi trường Touba nhỏ xíu, chỉ có một nhà ga xây cất sơ sài và một phi đạo làm bằng đá đỏ, mỗi lần máy bay đáp lên đáp xuống là bụi bay ….đỏ trời!Tôi hơi dài dòng ở đây để thấy tôi đi “làm lại cuộc đời” ở một nơi hoang vui hẻo lánh mà cảnh trí thì chẳng có gì hấp dẫn hết! Thêm vào đó, tôi là người Á Đông duy nhứt làm việc chung với Tây trắng (chỉ có năm người) và Tây đen (đông vô số kể). Ở đây, thiên hạ gọi tôi là “le chinois” – thằng Tàu – Suốt ngày, suốt tháng tôi chỉ nói có tiếng Pháp. Cho nên, trông giống như thằng khùng! Chưa bao giờ tôi thấy tôi cô đơn bằng những lúc tôi đối diện tôi trong gương như vậy.
Một hôm, sau hơn tám tháng “ở rừng”, tôi được gọi về Abidjan để họp (Đây là lằn đầu tiên được về thủ đô!) Anh tài xế đen đưa tôi ra Touba. Chúng tôi đến phi trường lối một giờ trưa. Sau khi phụ tôi gởi hành lý, anh tài xế nói: :”Tôi ra ngủ trưa ở trong xe. Chừng Patron (ông chủ) đi được rồi tôi mới về.”
Ở xứ đen, họ dùng từ “Patron” để gọi ông chủ, ông xếp, người có địa vị, có tiền, người mà họ nể nang v.v… Nghe quen rồi, chẳng có gì chói lỗ tai hết !
Tôi nói: “Về đi! Đâu cần phải đợi!”
Hắn nhăn răng cười, đưa hàm răng trắng tuốt: “Tại Patron không biết chớ ở đây lâu lâu họ lại hủy chuyến bay vào giờ chót, nói tại máy bay ăn-banh ở đâu đó. Máy bay cũng như xe hơi vậy, ai biết lúc nào nó nằm đường.”
Rồi hắn đi ra xe. Tôi ngồi xuống một phô-tơi, nhìn quanh, hành khách khá đông. Nhiều người ngồi với một số hành lý như thùng cạc-tông, bao bị, va-ly v.v… Không phải họ không biết gởi hành lý, nhưng vì những gì họ đã gửi đã đủ số ký-lô giành cho mỗi hành khách, nên số còn lại họ … xách tay, cho dầu là vừa nhiều món vừa nặng vừa cồng kềnh!
Không khí nóng bức. Mấy cái quạt trần quay vù vù, cộng thêm mấy cây quạt đứng xoay qua xoay lại, vậy mà cũng không đủ mát. Thiên hạ ngủ gà ngủ gật, tôi cũng ngả người trên lưng ghế, lim dim.
Trong lúc tôi đang thiu thìu ngủ thì loáng thoáng nghe có ai ca vọng cổ. Tôi mở mắt nhìn quanh rối thở dài, nghĩ: “Tại mình nhớ quê hương xứ sở quá nên trong đầu nghe ca như vậy. Rồi lại nhắm mắt lim dim… Lại nghe vọng cổ nữa. Mà lần này nghe rõ câu ngân nga trước khi “xuống hò” “ Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rũ bóng….đang vươn lên ngọn khói ….á….lam….à….chiều….” Đúng rồi! Không phải ở trong đầu tôi, mà rõ ràng có ai ca vọng cổ ngồi kia. Tôi nhìn ra hướng đó, thấy xa xa dưới lùm cây dại có một người da đen nằm võng. Và chỉ có người đó thôi. Lạ quá! Người đen đâu có nằm võng. Tập quán của họ là nằm một loại ghế dài bằng gỗ cong cong. Ngay như loại ghế bố thường thấy nằm dưới mấy cây dù to ở bãi biển….họ cũng ít dùng nữa.
Tò mò, tôi bước ra đi về hướng đó để xem là ai vừa ca vọng cổ lại vừa nằm võng đong đưa. Thì ra là một anh đen còn trẻ, còn cái võng là cái võng nhà binh của quân đội VNCH hồi xưa. Tôi nói bằng tiếng Pháp: “Bonjour!”
Anh ngừng ca, ngồi dậy nhìn tôi mỉm cười, rồi cũng nói “Bonjour”. Tôi hỏi vẫn bằng tiếng Pháp: “Anh hát cái gì vậy?” Hắn đứng lên, vừa bước về phía tôi vừa trả lời bằng tiếng Pháp: “Một bài ca của Việt Nam. Còn ông, có phải ông là le chinois làm việc cho hãng đường ở Borotou không?
Tôi trả lời vẫn bằng tiếng Pháp: “Đúng và sai! Đúng là tôi làm việc ở Borotou. Còn sai vì tôi không phải là người Tàu. Tôi là người Việt Nam.” Bỗng hắn trợn mắt có vẻ vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ, rồi bật ra bằng tiếng Việt, giọng đặc sệt miền Nam, chẳng có một chút lớ lớ: “Trời ơi! Bác là người Việt Nam hả?” Rồi hắn vỗ lên ngực: “Con cũng là người Việt Nam né” Thiếu chút nữa là tôi bật cười. Nhưng tôi kềm lại kịp, khi tôi nhìn gương mặt bỗng nghe một súc động dâng tràn lên cổ. Thân đã lưu vong, lại “trôi sông lạc chợ” đến cái xứ “khỉ ho cò gáy” này mà gặp được một người biết nói tiếng Việt Nam và biết nhận mình là người Việt Nam, dù là một người đen, sao thấy quý vô cùng. Hình ảnh của quê hương như đang ngời lên trước mặt.
Tôi bước tới bắt tay hắn. Hắn bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay, vừa lắc vừa nói huyên thuyên: “Trời ơi! …. Con mừng quá! Mừng quá! Trời ơi! Bác biết không? Bao nhiêu năm nay con thèm gặp người Việt để nói chuyện cho đã. Bây giờ gặp bác, thiệt …. Con mừng “hết lớn” bác à! Rồi hắn kéo tôi lại võng: “Bác nằm đi! Nằm đi!”
Hắn lại đống gạch “bờ-lóc” gần đấy lấy hai ba viên kê bên cạnh võng rồi ngồi lên đó, miệng vẫn không ngừng nói: “Con nghe thiên hạ nói ở Borotou có một người Tàu. Con đâu dè là bác. Nếu biết vậy con đã phóng Honda vô trỏng kiếm bác rồi! Đâu được tới bây giờ.” Hắn móc gói thuốc rồi mời tôi: “Mời bác hút với con một điếu.” Hắn đưa gói thuốc về phiá tôi, mời bằng hai tay… Một cử chỉ mà từ lâu tôi không còn nhìn thấy… Một cử chỉ nói lên sự kính trọng người trưởng thượng. Tôi thấy ở đó một cái gì rất Việt Nam. Tôi rút điếu thuốc để lên môi. Hắn chẹt quẹt máy, đưa ngọn lửa lên đầu điếu thuốc, một tay che che như trời đang có gió. Tôi bập thuốc rồi ngạc nhiên nhìn xuống cái quẹt máy. Hắn nhăn răng cười: “Bộ bác nhìn ra nó rồi hả?” Tôi vừa nhả khói thuốc vừa gật đầu. Đó là loại quẹt máy Việt Nam, nho nhỏ, dẹp lép, đầu đít có nét cong cong. Muốn quẹt phải lấy cái nắp ra chớ nó không dính vào thân ống quẹt bằng một bản lề nhỏ như những quẹt máy ngoại quốc. Hắn cầm ống quẹt, vừa lật qua lật lại vừa nhìn một cách trìu mến: “Của ông ngoại cho con đó! Oâng cho hồi ổng còn sống lận.” Rồi hắn bật cười: “Hồi đó ông gọi con bằng “thằng Lọ Nồi”. Ngừng một chút rồi tiếp: “Vậy mà ông thương con lắm à bác!” Hắn đốt điếu thuốc, hít một hơi dài rồi nhả khói ra từ từ. Nhìn cách nhả khói của hắn tôi biết hắn đang sống lại bằng nhiều kỷ niệm. Tôi nói: “Vậy là cháu lai Việt Nam à”
-“Dạ … Má con quê ở Nha Trang.”
-“Rồi má cháu bây giờ ở đâu?”
Giọng của hắn như nghẹn lại: “Má con chết rồi. Chết ở Nha Trang hồi năm 1975.”
-“Còn ba của cháu?”
-” Ông hiện ở Paris. Tụi này nhờ có dân Tây nên sau 1975 được hồi hương. Con đi quân dịch cho Pháp xong rồi, về đây ở với bà nội. Con sanh ra và lớn lên ở Sài Gòn, về đây, buồn thúi ruột thúi gan luôn!”
Tôi nhìn hắn một lúc, cố tìm ra một nét Việt Nam trên con người hắn. Thật tình, hắn không có nét gì lai hết. Hắn lớn con, nước da không đến nỗi đen thùi lùi như phần đông dân chúng ở xứ này, nhưng vẫn không có được cái màu cà phê lợt lợt để thấy có chút gì khác khác. Tóc xoắn sát da đầu, mắt lồi, môi dầy.
Tôi chợt nói, nói một cách máy móc: “Thấy cháu chẳng có lai chút nào hết!” Hắn nhìn thằng vào mắt tôi, giọng nghiêm trang: “Có chớ bác. Con có lai chớ bác “. Hắn xòe tay đưa ra phía trước, lật qua lật lại: “Bên nội của con là nằm ở bên ngoài đây nè.” Rồi hắn để một tay lên ngực, vỗ nhè nhẹ về phía trái tim: “Còn bên ngoại nó nằm ở bên trong. Ở đây, ở đây nè bác.” Bỗng hắn nghẹn lại: “Con lai Việt Nam chớ bác!” Trong khoảnh khắc tôi quên mất màu da đen của hắn, mà chỉ thấy trước mặt một thanh niên Việt Nam, Việt Nam từ cử chỉ tới lời nói. Tôi vỗ nhẹ lên vai hắn mấy cái, gật đầu nói: “Ờ…..bác thấy. Bây giờ thì bác thấy.”
Hắn mỉm cười: “Ở đây người ta nói con không giống ai hết, bởi vì con hành động cư xử, nói năng không giống họ…Bà nội con cũng nói như vậy nữa! Còn con thì mỗi lần con nhìn trong kiếng, con vẫn nhận ra con là người Việt Nam. Bác coi có khổ không?” Rồi nó nhìn tôi, một chút trìu mến dâng lên trong ánh mắt: “Bây giờ con gặp bác rồi, con thấy không còn cô đơn nữa, ở cái xó xa xôi hẻo lánh này thiệt là trời còn thương con quá” Tôi im lặng nghe hắn nói, nhìn hắn nói mà có cảm tưởng như hắn đang nói cho cả hai: cho hắn và cho tôi. Bởi vì cả hai cùng một tâm trạng.
Hắn vẫn nói, như hắn thèm nói từ lâu: “Nhớ Sài Gòn quá nên con hay ca vọng cỗ cho đỡ buồn. Hồi nãy lúc bác lại đây là lúc con đang ca bài “Đường về quê ngoại” đó bác.
“Bác không biết ca, nhưng bác rất thích nghe vọng cổ.”
Giọng nói hắn bỗng như hăng lên: “Vọng cổ là cái chất của miền Nam mà bác. Nó không có lai Aâu lai Á gì hết. Nó có cái hồn Việt Nam cũng như cá kho tộ, tô canh chua. Bác thấy không? Bởi vậy, không có gì nhắc cho con nhớ Việt Nam bằng bài ca vọng cổ hết.”
Có tiếng máy bay đang đánh một vòng trên trời. Chúng tôi cùng đứng lên, hắn nói: “Nó tới rồi đó. Con phải sửa soạn xe trắc-tơ và rờ-mọt để lấy hành lý. Con làm việc cho hãng Air Afriqua, bác à.”
Rồi hắn nắm tay tôi lắc mạnh: “Thôi, bác đi mạnh giỏi. Con tên là Jean. Ở đây ai cũng biết “Jean le vietnamien” hết. Chừng về bác ghé con chơi, nghen.”
Bỗng hắn ôm chầm lấy tôi siết nhẹ. Rồi giữ như vậy không biết bao nhiêu lâu. Tôi nghe giọng hắn lạc đi: “Ghé con nghe bác ….Ghé con….”
Tôi không còn nói được gì hết. Chỉ vừa gật đầu vừa vỗ vào lưng hắn như vỗ lưng một người con.
Khi hắn buông tôi ra, tôi thấy hai má của hắn ướt nước mắt. Tôi vội quay đi, lầm lũi bước nhanh nhanh về nhà ga mà nghĩ thương cho “thăng Jean le vietnamien”, hồi nãy nó ôm tôi, có lẽ nó đã tưởng tượng như là nó đang ôm lại được một góc trời quê mẹ….
Trên máy bay, tôi miên man nghĩ đến “thằng Jean” rồi tự hứa sẽ gặp lại nó thường. Để cho nó bớt cô đơn. Và cũng để cho tôi bớt cô đơn nữa!
Bây giờ viết lại truyện thằng Jean mà tôi tự hỏi: “Trong vô số người Việt Nam lưu vong hôm nay, còn được bao nhiêu người khi nhìn trong gương vẫn nhận ra mình là người Việt Nam? Và có được bao nhiêu người còn mang mểnh trong lòng bài ca vọng cổ, để thấy hình ảnh quê hương vẫn còn nguyên trong đó?”
Tiểu Tử (Riêng tặng những người còn ca vọng cổ và tặng những người còn nhớ vọng cổ)

Sống


Sống không giận, không hờn, không oán trách
Sống mỉm cười, với thử thách chông gai
Sống vươn lên, theo kịp ánh ban mai
Sống an hòa, cùng với người chung sống


Sống là động, nhưng lòng luôn bất động
Sống hiên ngang, nhưng danh lợi xem thường
Sống là thương, nhưng lòng chẳng vấn vương
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến .

Monday, May 11, 2009

Tin quan trọng

Tóm tắt:
1. Tin từ một bác sĩ ngành di truyền và đã đi họp với WHO (Tổ chức y tế thế giới).
2. Dịch cúm nguy hại hơn những tin tức mà chúng ta đã nghe.
3. Siêu vi cúm nầy có thể nguy hiểm hơn chúng ta tưởng.
4. Phải đề phòng và chuẩn bị ngay bây giờ. Tin viết trước khi WHO nâng cấp báo động lên 5. Bây giờ đã là 5 rồi.
5. Một khi WHO tăng lên cấp 6 thì mọi người dù bịnh hay không gì cũng chịu ảnh hưởng rất nặng. Các bạn nên quan tâm tới phần nầy mà chuẩn bị trước khi xảy ra (nếu có).
6. Mong quý bạn chuyển email nầy cho nhau.
Cẩn thận và đề phòng trước vẫn hay hơn. Hy vọng 6 tháng sau chúng ta có thuốc ngừa, và hy vọng cơ thể loài người học được cách phá những "thế võ" mới của loài siêu vi cúm heo hiện nay. Tuy nhiên siêu vi cúm thì biến đổi không dùng, trận đấu sẽ dài dài bất tận.


Về Cúm Heo
Tôi vừa có một cuộc họp quan trọng với WHO (Tổ chức y tế thế giới) về tình trạng cúm heo. Tôi xin thông báo với quý vị một số thông tin như sau :

Tình trạng cúm heo A(H1N1) nguy hiểm hơn những gì quý vị đọc trên những bản tin. Theo riêng cá nhân tôi tìm hiểu thì nước Mỹ đã có 91 trường hợp mắc bệnh và một tử vong, con số chính thức có thể cao hơn vì nhiều trường hợp chưa phát hiện, trong khi đó Mexico có thể cao hơn con số chính phủ Mexico đưa ra. Theo ước đoán của tôi có thể trên 50.000 người bị dịch và có thể cao hơn. WHO hiện đang họp để nâng báo động lên cấp 5 trong nay mai và có thể lên 6 là cao nhất. Khi báo động cấp 6 tức là đóng cửa biên giới các nước lây nhiễm kể cả những chuyến bay và lưu thông nhất là tới Hoa Kỳ và Canada. Tôi hy vọng không có trường hợp nầy xảy ra.

Theo các khoa học gia cho biết là loại gen mới nầy do phối hợp của gen cúm gia cầm, cúm heo, và cúm người.
Tôi gửi khẩn cấp lá thư nầy đến cho quý vị và mong quý vị hết sức cẩn thận, đừng xem thường nạn dịch nầy. Tôi mong quý vị trong lúc nầy nên tránh các chỗ đông người. Khi đi mua sắm hay phải đến những nơi đông người thì xin quý vị rửa tay nhiều lần vì khi chúng ta đụng vào các nắm cửa, quần áo, đồ vật … mình không biết chúng có dính virus hay không.

Nếu quý vị phải tiếp xúc với khách thì lúc nói chuyện, tìm cách đừng để mặt quá gần. Nếu sau khi tiếp xúc với người mà mình nghi có bệnh thì hãy vào rửa tay trước và rửa mặt liền sau đó. Nên mua loại khăn ướt có chất alcohol. Dùng loại nầy để lau tay, lau mặt thường nếu không có cơ hội rửa tay, rửa mặt. Khi con em mình bị ho, bị sổ mũi chảy nước hãy liên lạc ngay với bác sĩ để khám. Theo tôi biết hiện nay chưa có vaccine để chủng loại virus mới nầy và các nhà thuốc cần thời gian 4-5 tháng để hoàn tất nhưng quý vị có thể tạm thời dùng loại vaccine hiện có để chống các loại cúm thông thường.Thuốc Tamiflu rất hiệu quả cho loại virus mới nầy. Khi thấy có triệu chứng đầu tiên của bệnh nầy là ho và sổ mũi nước thì xin gặp bác sĩ hay đi bệnh viện khám, nếu có bệnh, họ sẽ cho uống liền Tamiflu hay loại thuốc tương tự.

Nếu trường hợp WHO báo động tới cấp 6 thì trường học, công sở ở một số nước có thể bị buộc đóng cửa. Hiện nay WHO đang chuẩn bị nâng báo động lên cấp 5 trong vòng vài ngày tới.

Mong quý vị phổ biến tin nầy qua email cho bạn bè, thân hữu.

Trân trọng,
Bs Nguyễn Thùy Trang, M.D. Genetics